Đầu tư tích lũy đơn giản và nhanh chóng với Anfin
- Mở tài khoản chỉ mất vài phút
- Đầu tư tích lũy chỉ từ 10.000đ
- Học kiến thức và theo dõi tin tức cùng Cộng đồng miễn phí
Lãi suất âm vốn là chủ đề gây tranh cãi trong giới tài chính và kinh tế. Vậy thực tế lãi suất âm là gì? Khi nào lãi suất âm được áp dụng và nó có những ảnh hưởng gì đến tình hình kinh tế? Cùng khám phá ngay trong bài viết dưới đây.
Lãi suất âm là hiện tượng xảy ra khi người đi vay nhận được lãi suất cao hơn so với người cho vay. Nói cách khác, người vay tiền sẽ không phải trả lãi suất và người gửi tiền sẽ phải trả một khoản phí cho ngân hàng.
Lãi suất âm thường được ngân hàng trung ương sử dụng để điều tiết tình hình kinh tế. Khi ngân hàng trung ương áp dụng lãi suất âm, các ngân hàng thương mại buộc phải trả lãi để gửi tiền vào ngân hàng trung ương thay vì nhận lãi. Thực tế người phải chịu lãi cuối cùng là khách hàng của các ngân hàng thương mại - các doanh nghiệp và người gửi tiền.
Tuy vậy tình trạng này có thể gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế và tài chính nếu không được áp dụng đúng cách.
Lãi suất âm thường được áp dụng khi mức lãi suất dương đã giảm đến mức thấp nhất có thể. Khi đó, để tiếp tục kích thích tăng trưởng kinh tế, ngân hàng trung ương sẽ áp dụng lãi suất âm cho các khoản vay hoặc tiền gửi của khách hàng.
Lãi suất âm cũng được áp dụng trong tình trạng giảm phát bởi vì khi giảm phát diễn ra, ngân hàng trung ương có xu hướng giảm lãi suất để kích thích tăng trưởng kinh tế. Việc giảm lãi suất sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư và kích thích người dân tiêu dùng. Nói cách khác, trong tình hình giảm phát, lãi suất âm có thể giúp tăng cường sức mua của tiền tệ và khuyến khích chi tiêu, đóng góp vào việc kích thích tăng trưởng kinh tế.
Trên lý thuyết, bất kỳ quốc gia nào cũng có thể áp dụng lãi suất âm. Tuy vậy, những nền kinh tế nhỏ hoặc không ổn định có thể không đủ khả năng để đối phó với các rủi ro tài chính và kinh tế khi áp dụng lãi suất âm.
Bên cạnh đó, một số quốc gia có chính sách cứng rắn về lãi suất, không cho phép lãi suất âm hoặc áp dụng lãi suất rất thấp như: Mỹ, Anh, Úc. Dù không cho phép lãi suất âm, lãi suất dương của các nước này có thời điểm đã giảm xuống rất thấp.
Ý nghĩa quan trọng nhất của lãi suất âm chính là kích thích tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, khi lãi suất dương đã giảm đến mức thấp nhất và các biện pháp khác không hiệu quả, lãi suất âm có thể được áp dụng để tiếp tục kích thích hoạt động đầu tư và tiêu dùng, từ đó đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế.
Khi áp dụng lãi suất âm, ngân hàng trung ương cũng kỳ vọng có thể khuyến khích ngân hàng thương mại cho doanh nghiệp và các cá nhân vay, sử dụng nguồn vốn hiệu quả, từ đó thúc đẩy guồng quay kinh tế.
Trên lý thuyết, lãi suất âm có thể giúp kích thích tăng trưởng kinh tế. Nhưng thực tế, việc áp dụng lãi suất âm vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Đầu tiên, lãi suất âm sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của các tổ chức tài chính như các ngân hàng, công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư. Bởi các tổ chức này sẽ không thể thu được lợi nhuận từ các khoản vay hoặc các khoản đầu tư đang có.
Bên cạnh đó, lãi suất âm còn có thể làm tăng rủi ro tín dụng. Vì khi lãi suất âm được áp dụng, các tổ chức tài chính có thể sẽ cung cấp các khoản vay với lãi suất thấp hơn hoặc âm, nhằm cạnh tranh với các đối thủ và thu hút khách hàng. Tuy nhiên, điều này có thể làm tăng rủi ro tín dụng vì họ cho vay mà không tính đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Ngoài ra, lãi suất âm có thể dẫn đến tình trạng các ngân hàng và tổ chức tài chính thu phí khách hàng gửi tiền thay vì trả lãi cho họ. Điều này tạo ra động cơ để mọi người rút tiền và giữ tiền mặt. Từ đó làm giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ và có khả năng dẫn đến bẫy thanh khoản. Tuy vậy, rủi ro xảy ra bẫy thanh khoản khi áp dụng lãi suất âm là thấp bởi các yếu tố ảnh hưởng còn bao gồm môi trường kinh tế tổng thể, chính sách tài khóa và hành vi của người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, lãi suất âm là một khái niệm khá mới mẻ. Tuy vậy, tại một số nước trên thế giới, ngân hàng nhà nước đã không ít lần phải áp dụng lãi suất âm để điều tiết nền kinh tế.
Vào đầu những năm 1970, Thụy Sĩ đã áp dụng lãi suất âm để chống lại việc đồng tiền của họ tăng giá do các nhà đầu tư chạy vào đây để tránh lạm phát ở những nơi khác trên thế giới.
Vào năm 2009 và 2010, Thụy Điển cũng đã sử dụng lãi suất âm để kiềm chế dòng tiền nóng đổ vào nền kinh tế của họ.
Vào năm 2014, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) đã thiết lập một tỷ lệ lãi suất âm nhằm ngăn chặn khu vực đồng tiền chung châu Âu rơi vào vòng xoáy giảm phát.